Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025 xác định: “phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, nông nghiệp đô thị” là một trong nhiệm vụ quan trọng để phát triển kinh tế nhanh và bền vững trên cơ sở ứng dụng mạnh mẽ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và tăng năng suất lao động.
Với quan điểm phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh theo hướng phát triển nông nghiệp đô thị hiện đại, bền vững gắn với chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Phát triển nông nghiệp công nghệ cao nhằm tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng gia tăng giá trị trên đơn vị diện tích, phát triển bền vững trên 3 phương diện kinh tế, xã hội và môi trường. Đổi mới khoa học và công nghệ được coi là một trong giải pháp then chốt, trọng tâm cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Do vậy, định hướng, mục tiêu phát triển nông nghiệp công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2030 và định hướng đến năm 2045 như sau:
Về định hướng: ứng dụng khoa học và công nghệ hiện đại, tiên tiến để phục vụ nghiên cứu, chọn tạo sản xuất giống cây trồng, vật nuôi và thủy sản năng suất cao và thích nghi tốt với điều kiện môi trường thay đổi, chịu mặn, biến đổi khí hậu, sản xuất được sản phẩm chất lượng cao và phát triển sản phẩm nông nghiệp, an toàn, tăng năng suất, tăng giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích, phục vụ yêu cầu tái cơ cấu ngành nông nghiệp và phát triển nông nghiệp Thành phố là nền nông nghiệp đô thị, nông nghiệp công nghệ cao theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, hiệu quả và phát triển bền vững đáp ứng nhu cầu trong nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Về mục tiêu: nâng cao năng lực nghiên cứu, lai tạo và chọn lọc sản xuất, quản lý giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản theo hướng công nghiệp hiện đại; khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư nghiên cứu, sản xuất giống nhằm đảm bảo cung cấp đầy đủ giống chất lượng cao, góp phần thực hiện thành công định hướng cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững đến năm 2030. Phát triển nông nghiệp công nghệ cao là xu hướng chủ đạo và tất yếu của ngành nông nghiệp Thành phố, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất để tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, phục vụ phát triển đô thị theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, giá trị gia tăng, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh cao và thân thiện với môi trường.
Trên cơ sở quan điểm, định hướng, mục tiêu nhằm phát triển nông nghiệp công nghệ cao Thành phố đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cần tập trung triển khai một số giải pháp chủ yếu như sau:
Thứ nhất, thống nhất chủ trương, hoàn thiện chính sách: tiếp tục triển khai thực hiện các chính sách đang hiện hành; ngoài áp dụng các cơ chế chính sách khuyến khích được quy định của trong Luật Công nghệ cao, Luật Trồng trọt, Luật Chăn nuôi, Luật Thủy sản và của Nghị định Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thành phố cần quan tâm triển khai đến chính sách, đồng thời nghiên cứu bổ sung như: Chính sách khuyến khích chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đô thị trên địa bàn Thành phố, trong đó, nghiên cứu bổ sung nội dung thu hút đầu tư hiệu quả cho phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nhất là lĩnh vực đất đai, vốn và khoa học công nghệ.
Chính sách khuyến khích phát triển hợp tác xã, mô hình liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp theo chuỗi, trọng tâm là mối liên kết giữa nông dân, tổ hợp tác, hợp tác xã với các doanh nghiệp cung ứng tiêu thụ nông sản; khu Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và các cơ sở ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, nhằm phát huy vai trò hạt nhân của mối liên kết khu và vùng trong chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực và liên kết sản xuất, tiêu thụ theo chuỗi giá trị ngành hàng.
Thứ hai, quy hoạch và mở rộng, nâng cấp cơ sở hạ tầng khu, vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, sản xuất giống công nghệ cao: Triển khai lập quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao theo quy định, trong đó gắn quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất các quận, huyện với bố trí giống cây trồng, vật nuôi chủ lực (rau, hoa kiểng, heo, bò sữa, tôm và cá cảnh). Tháo gỡ vướng mắc về thủ tục đất đai, đẩy nhanh tiến độ xây dựng và sớm bổ sung đưa vào sử dụng 2 - 3 Khu Nông nghiệp Công nghệ cao; Ưu tiên cho thuê đất, giao đất và các chính sách ưu đãi đầu tư cơ sở hạ tầng, khoa học và công nghệ, môi trường... cho hợp tác xã, doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao tại vùng, khu nông nghiệp công nghệ cao theo quy định.
Thứ ba, đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp: tăng cường ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ tự động hóa trong sản xuất các sản phẩm chủ lực của Thành phố (cây rau, hoa kiểng, heo, bò sữa, tôm sú) và sản phẩm tiềm năng là cá cảnh. Nghiên cứu phát triển quy trình công nghệ tổng hợp và cơ giới hóa, tự động hóa, thiết lập hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, quản lý thông tin đất và sử dụng đất cho nông nghiệp công nghệ cao. Khuyến khích các hộ mở rộng quy mô sản xuất đồng thời, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất.
Thứ tư, hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân sản xuất nông nghiệp công nghệ cao: hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện hồ sơ đăng ký giấy xác nhận là doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao, khi đó doanh nghiệp mới được hưởng các ưu đãi của Luật Công nghệ cao. Khuyến khích các hộ sản xuất nông nghiệp công nghệ cao tham gia và thành lập mới các hợp tác xã nông nghiệp công nghệ cao. Đồng thời, tăng cường tuyên truyền các chính sách ưu đãi cũng như hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường của mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao cho người dân nhằm phát triển số lượng và quy mô sản xuất nông nghiệp công nghệ cao.
Thứ năm, thu hút đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông nghiệp công nghệ cao: công bố công khai quy hoạch để các doanh nghiệp kịp thời tiếp cận các cơ hội đầu tư cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Triển khai chính sách vay vốn ưu đãi của Thành phố tới các hợp tác xã và hộ sản xuất nông nghiệp công nghệ cao; cần có cơ chế đặc biệt về hỗ trợ tín dụng, đất đai như miễn thuế, giảm thuế trong thời gian đầu kinh doanh.
Thứ sáu, phát triển thị trường tiêu thụ, giá cả sản phẩm nông sản công nghệ cao: tăng cường hoạt động hệ thống thông tin nông nghiệp, xây dựng kênh thông tin nông nghiệp để cung cấp các thông tin về thị trường, các yếu tố đầu vào, đầu ra của sản xuất; nông nghiệp công nghệ cao ứng dụng trong sản xuất, quản lý; các rào cản kỹ thuật; thông tin về sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao về các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, nghiên cứu và đưa ra các dự báo về thị trường nông sản công nghệ cao. Mở rộng thị trường xuất khẩu được sẽ khắc phục được tình trạng bị phụ thuộc vào một số đối tác, một số thị trường cụ thể.
Thứ bảy, xây dựng chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ ổn định và bền vững: xây dựng triển khai các chính sách khuyến khích doanh nghiệp liên kết với hợp tác xã nông nghiệp công nghệ cao, chính sách khuyến khích hộ nông dân sử dụng dịch vụ của hợp tác xã góp phần hỗ trợ phát triển hợp tác xã nông nghiệp công nghệ cao, chuỗi liên kết giữa hộ nông dân sản xuất nông nghiệp công nghệ cao với doanh nghiệp; chuỗi liên kết hộ nông dân sản xuất nông nghiệp công nghệ cao - hợp tác xã công nghệ cao. Liên kết với các doanh nghiệp cung ứng giống và tiêu thụ sản phẩm của Thành phố với các hộ sản xuất nhỏ lẻ trong và ngoài Thành phố, hình thành tổ hợp tác, hợp tác xã. Kết nối thị trường, tạo liên kết vùng đã dần hình thành các chuỗi cung ứng lớn và bền vững, từ đó giảm thiểu các hiện tượng bếp bênh về thời vụ.
Thứ tám, đẩy mạnh công tác phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp công nghệ cao: thông qua nâng cao chất lượng đào tạo cao trong các lĩnh vực công nghệ giống cây trồng, vật nuôi (sản xuất, quản lý, kiểm định, kiểm nghiệm giống); công nghệ canh tác trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và công nghệ bảo quản nông sản sau thu hoạch. Khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia chương trình đào tạo, huấn luyện công nhân, kỹ thuật viên trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao. Chú trọng phát triển nguồn nhân lực đáp ứng xu hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao, có chính sách đặc thù thu hút nguồn nhân lực có trình độ khoa học - kỹ thuật cao từ các trung tâm, viện nghiên cứu, các trường đại học thuộc lĩnh vực nông nghiệp về làm việc hoặc hỗ trợ kỹ thuật cho Thành phố. Đặc biệt là thu hút nguồn nhân lực đã được đào tạo chuyên sâu về khối ngành kỹ thuật công nghệ thông tin, công nghệ cảm biến IoT, công nghệ nhà kính, nhà màng, công nghệ sinh học, quản lý nông vụ, truy xuất nguồn gốc…
Thứ chín, nâng cao năng lực cán bộ, tăng cường công tác khuyến nông, chuyển giao công nghệ và đẩy mạnh hoạt động truyền thông nông nghiệp công nghệ cao nhằm nâng cao nhận thức cho người sản xuất: thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước, phân cấp quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát từ các khâu sản xuất đến khâu lưu thông. Tăng cường đưa cán bộ quản lý tham quan học tập kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Tăng cường công tác chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật; đẩy mạnh chuyển giao các công nghệ mới cho nông dân và tăng cường liên kết “5 nhà” (nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà sản xuất và nhà ngân hàng) để từng bước giải quyết các vấn đề về giống, công nghệ chế biến, công nghệ sau thu hoạch. Tập trung nguồn lực xây dựng các mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp hiệu quả. Đồng thời, tiếp nhận chuyển giao, ứng dụng nhanh kết quả nghiên cứu tiến bộ khoa học công nghệ trong sản xuất giống, quy trình sản xuất theo hướng ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học vào sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản sản phẩm cây trồng, vật nuôi, thủy sản chủ lực, đặc thù có giá trị kinh tế cao trên địa bàn Thành phố.
Trên cơ sở quan điểm, định hướng, mục tiêu phát triển nông nghiệp công nghệ cao đến năm 2030 và định hướng đến năm 2045 và cần tập trung triển khai các giải pháp nêu trên nhằm phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh mang lại hiệu quả trong thời gian tới./..